Credited: Unsplash / CC0 Public Domain
Nguy cơ đột quỵ đối với những bệnh nhân bị chấn thương sọ não là cao nhất trong 4 tháng sau chấn thương và vẫn còn đáng kể cho đến 5 năm sau chấn thương, một đánh giá có hệ thống mới do một nhóm nghiên cứu tại Đại học Birmingham dẫn đầu.
Chấn thương sọ não (TBI) là một vấn đề sức khỏe toàn cầu ảnh hưởng đến hơn 60 triệu người mỗi năm trên toàn thế giới. Tỷ lệ mắc bệnh TBI đang gia tăng do một loạt các yếu tố bao gồm gia tăng tỷ lệ ngã ở người cao tuổi, xung đột quân sự, chấn thương thể thao và tai nạn giao thông đường bộ. Tuy nhiên, những tiến bộ trongchăm sóc quan trọng và chẩn đoán hình ảnh đã làm giảm tỷ lệ tử vong liên quan đến TBI.
Các nghiên cứu trước đây đã liên kết TBI với nguy cơ lâu dài của các bệnh thần kinh bao gồm sa sút trí tuệ, Parkinson và động kinh, và TBI đã được đề xuất như một yếu tố nguy cơ độc lập đối với đột quỵ.
Tập hợp 18 nghiên cứu từ bốn quốc gia và được xuất bản 9 tháng 4 trênTạp chí Quốc tế về Đột quỵ, là bài đánh giá đầu tiên thuộc loại điều tra sau chấn thương nguy cơ đột quỵ.
Được tài trợ bởi Trung tâm Nghiên cứu Vi sinh và Tái tạo Phẫu thuật của Viện Nghiên cứu Y tế Quốc gia có trụ sở tại Bệnh viện Đại học Birmingham NHS Foundation Trust, đánh giá cho thấy bệnh nhân TBI có nguy cơ đột quỵ tăng 86% so với những bệnh nhân không trải qua TBI. Đánh giá cho thấy nguy cơ đột quỵ có thể cao nhất trong bốn tháng đầu tiên sau chấn thương, nhưng vẫn đáng kể trong vòng 5 năm.
Đáng chú ý, các phát hiện cho thấy rằng TBI là một yếu tố nguy cơ của đột quỵ bất kể mức độ nghiêm trọng hoặc loại phụ của chấn thương. Điều này đặc biệt đáng chú ý vì 70% đến 90% TBI là nhẹ và cho thấy rằng TBI nên được coi là một tình trạng mãn tính ngay cả khi nó nhẹ và bệnh nhân hồi phục tốt.
Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng việc sử dụng thuốc chống đông máu, chẳng hạn như VKA và statin, có thể giúp giảm nguy cơ đột quỵ sau TBI, trong khi việc sử dụng một số loại thuốc chống trầm cảm có liên quan đến việc tăng nguy cơ đột quỵ sau TBI.
Tác giả chính, Tiến sĩ Grace Turner, thuộc Viện Nghiên cứu Y tế Ứng dụng của Đại học Birmingham, cho biết: “Đột quỵ là nguyên nhân tử vong thứ hai và nguyên nhân gây tàn tật đứng hàng thứ ba trên toàn thế giới, tuy nhiên, điều trị khẩn cấp có thể ngăn ngừa tử vong liên quan đến đột quỵ và lâu dài khuyết tật.
“Chúng tôi tìm thấy một số bằng chứng cho thấy một mối liên hệ giữa giảm nguy cơ đột quỵ sau TBI và các loại thuốc phòng ngừa đột quỵ VKAs và statin nhưng, như nghiên cứu trước đây đã tìm thấy, thuốc phòng ngừa đột quỵ có những tác động khác nhau với mỗi cá nhân bị TBI.
Bà cho biết cần phải có thêm nhiều nghiên cứu để điều tra hiệu quả của các loại thuốc phòng ngừa đột quỵ sau TBI để giúp thông báo cho bác sĩ về việc kê đơn và tạo điều kiện thuận lợi cho việc ra quyết định chung.
Tiến sĩ Turner nói thêm: “Như đánh giá của chúng tôi đã chỉ ra, bệnh nhân TBI nên được thông báo về khả năng tăng nguy cơ đột quỵ và với nguy cơ đột quỵ cao nhất trong bốn tháng đầu tiên sau chấn thương, đây là khoảng thời gian quan trọng để giáo dục. Bệnh nhân và những người chăm sóc họ về nguy cơ và các triệu chứng đột quỵ.
“Khoảng thời gian bốn tháng đầu tiên này cũng nên được các bác sĩ lâm sàng sử dụng để dùng thuốc phòng ngừa đột quỵ và tư vấn lối sống nhằm giảm thiểu nguy cơ đột quỵ liên quan đến TBI.”
(Nguồn Medicalxpress. Com)