Một hình ảnh đơn lẻ của não người bằng máy chụp cộng hưởng từ (MRI) . Nhà cung cấp: Tiến sĩ Leon Kaufman. Đại học California, San Francisco
Một loại siêu âm có thể phát hiện mô ung thư còn sót lại sau khi khối u não được loại bỏ nhạy hơn bác sĩ phẫu thuật và có thể cải thiện kết quả từ các cuộc phẫu thuật, một nghiên cứu mới cho thấy.
Kỹ thuật siêu âm mới, được gọi là kỹ thuật đàn hồi sóng biến dạng, có thể được sử dụng trong quá trình phẫu thuật não để phát hiện mô ung thư còn sót lại, cho phép bác sĩ phẫu thuật loại bỏ càng nhiều càng tốt.
Các nhà nghiên cứu tin rằng kiểu quét mới, thực hiện nhanh hơn nhiều và chi phí hợp lý hơn so với chụp MRI ‘tiêu chuẩn vàng’, có khả năng giảm nguy cơ tái phát của bệnh nhân bằng cách cắt giảm khả năng khối u phát triển trở lại.
So sánh ba phương pháp khác nhau
Một nhóm đa tổ chức do Viện Nghiên cứu Ung thư, Luân Đôn và Bệnh viện Thần kinh và Phẫu thuật Thần kinh Quốc gia, Luân Đôn, đã so sánh ba kỹ thuật khác nhau để phát hiện mô khối u trong quá trình phẫu thuật — quét sóng cắt, tiêu chuẩn 2-D siêu âm và ý kiến của bác sĩ phẫu thuật — ở 26 bệnh nhân.
Nghiên cứu được thực hiện với sự hợp tác của các bác sĩ từ Bệnh viện Hoàng gia London và Bệnh viện Đại học Southampton.
Các nhà nghiên cứu đã thực hiện quét sóng biến dạng và siêu âm 2-D trong quá trình phẫu thuật — trước, trong và sau khi cắt bỏ khối u. Các nhà nghiên cứu cũng yêu cầu các bác sĩ phẫu thuật xác định các mô có khả năng bị ung thư trước khi cung cấp cho họ kết quả quét. Sau đó, nhóm nghiên cứu so sánh tất cả các kỹ thuật với quét MRI tiêu chuẩn vàng sau phẫu thuật.
Nghiên cứu được công bố trên tạp chí Frontiers in Oncology và được tài trợ bởi Tổ chức Từ thiện Miễn phí Hoàng gia và Hội đồng Nghiên cứu Khoa học Vật lý và Kỹ thuật, một phần của UKRI. Nó phát hiện ra rằng siêu âm sóng biến dạng nhạy cảm hơn trong việc phát hiện mô khối u còn sót lại so với siêu âm tiêu chuẩn hoặc bác sĩ phẫu thuật đơn thuần.
Nhạy cảm hơn trong việc phát hiện khối u còn sót lại
Quét sóng Shear phát hiện mô khối u với độ nhạy 94% – so với 73% đối với siêu âm tiêu chuẩn và 36% đối với bác sĩ phẫu thuật. Điều này có nghĩa là khi có khối u còn sót lại, quét sóng biến dạng tốt hơn 2,5 lần so với việc bác sĩ phẫu thuật phát hiện ra nó.
Tuy nhiên, quét sóng biến dạng phát hiện mô khối u chỉ có 77% độ đặc hiệu — tốt hơn 63% đối với siêu âm tiêu chuẩn nhưng kém hơn so với 100% đối với bác sĩ phẫu thuật.
Điều đó có nghĩa là kỹ thuật mới có thể mang lại nhiều ‘dương tính giả’ hơn các bác sĩ phẫu thuật – và vì lý do đó, các nhà nghiên cứu tin rằng nó sẽ được sử dụng tốt nhất khi kết hợp với ý kiến của bác sĩ phẫu thuật.
Đo độ đàn hồi sóng cắt đo độ cứng và độ giãn của mô. Rung động hoặc ‘sóng biến dạng’ được tạo ra và phát hiện khi chúng di chuyển qua mô — di chuyển nhanh hơn qua mô cứng hơn.
Tạo bản đồ độ cứng
Các khối u não trung bình có xu hướng cứng hơn mô não bình thường và kỹ thuật này hoạt động bằng cách lập bản đồ các vùng nghi ngờ về độ cứng cụ thể, sau đó có thể được kiểm tra và loại bỏ trong quá trình phẫu thuật.
Kết quả của bệnh nhân sau phẫu thuật khối u não được biết là tốt hơn khi loại bỏ được càng nhiều khối u càng tốt. Để chắc chắn rằng không để lại khối u nào có thể cắt được, các bác sĩ phẫu thuật thần kinh sử dụng các công cụ để hướng dẫn chúng trong quá trình phẫu thuật.
Nhưng mặc dù quét MRI là chính xác nhất, việc sử dụng chúng trong khi phẫu thuật thường không phải là một lựa chọn – vì chúng rất tốn kém, thường không có sẵn trong các phòng mổ và sẽ làm tăng thời gian phẫu thuật lên gần hai giờ.
Quét sóng biến dạng đã được chứng minh là tốt như MRI sau phẫu thuật trong việc phát hiện các mô khối u bị sót lại — làm cho chúng trở thành một giải pháp thay thế rẻ hơn, nhanh hơn và khả thi hơn. Nghiên cứu này là nghiên cứu đầu tiên chứng minh tiềm năng của kỹ thuật đàn hồi sóng biến dạng như một công cụ phẫu thuật thần kinh để xác nhận trong quá trình phẫu thuật tính hoàn chỉnh của việc loại bỏ khối u — mặc dù những lợi ích của kỹ thuật này sẽ cần được xác nhận trong các nghiên cứu lớn hơn trước khi nó có thể được đề xuất như là thực hành tiêu chuẩn .
“Một phương tiện cải thiện kết quả từ hoạt động”
Trưởng nhóm nghiên cứu, Giáo sư Jeffrey Bamber, giáo sư vật lý áp dụng cho y học tại Viện Nghiên cứu Ung thư, London, cho biết, “Đảm bảo loại bỏ tất cả khối u não mà không làm tổn thương mô khỏe mạnh là một thách thức lớn trong phẫu thuật não. Sử dụng kiểu quét mới này, các bác sĩ phẫu thuật có thể tăng cường sự tin tưởng rằng không có mô ung thư nào bị bỏ lại sau khi phẫu thuật.
“Quét sóng biến dạng có thể lập bản đồ độ cứng của mô não và mô khối u ở bệnh nhân trong quá trình phẫu thuật một cách nhanh chóng và chi phí hợp lý. Mô khối u có xu hướng có độ cứng khác với mô não khỏe mạnh xung quanh và có thể được định vị và loại bỏ.
” thời gian mà công cụ mới này tốt hơn so với siêu âm 2-D tiêu chuẩn hoặc tự đánh giá của bác sĩ phẫu thuật — và có khả năng bổ sung ý kiến của bác sĩ phẫu thuật như một phương tiện cải thiện kết quả từ các ca phẫu thuật. ”
Hướng dẫn trong thời gian thực
Giáo sư Kevin Harrington, Trưởng khoa Xạ trị và Hình ảnh tại Viện Nghiên cứu Ung thư, London cho biết, “Hình ảnh đóng một vai trò quan trọng trong nhiều khía cạnh của điều trị ung thư, trong việc cung cấp thông tin có giá trị về khối u và đảm bảo các bác sĩ không phải đưa ra quyết định mù quáng. Nghiên cứu mới này lần đầu tiên chỉ ra rằng một kiểu quét siêu âm cụ thể có thể cung cấp hướng dẫn thời gian thực cho các bác sĩ phẫu thuật não trong quá trình phẫu thuật khi họ chọn loại mô nào để loại bỏ. Đó là một lĩnh vực nghiên cứu thú vị có khả năng cải thiện kết quả cho bệnh nhân bằng cách đảm bảo các bác sĩ phẫu thuật loại bỏ toàn bộ khối u trong khi giảm thiểu thiệt hại cho não khỏe mạnh. ”
Ông Neil Dorward, nhà tư vấn giải phẫu thần kinh và đồng nghiên cứu tại Bệnh viện Thần kinh và Phẫu thuật Thần kinh Quốc gia cho biết, “Kỹ thuật này cung cấp một phương tiện rất thực tế để phát hiện các khu vực có khả năng có thể tháo rời khối u mà bác sĩ phẫu thuật không thể nhìn thấy được. Bác sĩ phẫu thuật phải sử dụng kinh nghiệm của mình để quyết định xem có nên cắt bỏ khu vực bất thường hay không. Điều này có khả năng cải thiện đáng kể kết quả của những ca phẫu thuật như vậy. ”
” Thật sự rất đáng khích lệ khi biết rằng bạn sẽ được ở trong bàn tay an toàn nhất có thể “
Dagmar Krafft, 54 tuổi, người không tham gia vào nghiên cứu, được chẩn đoán mắc bệnh ung thư não vào năm 2013 Sau khi bị một cơn động kinh, cô ấy nói, “Tôi được chẩn đoán mắc bệnh ung thư não. Tôi đang tham gia một buổi diễn tập của dàn nhạc — nơi tôi chơi như một nghệ sĩ vĩ cầm nghiệp dư — thì tôi bị co giật và được đưa vào bệnh viện. Đội ngũ ở đó đã chăm sóc tôi rất chu đáo và tôi đã xạ trị để giảm kích thước khối u, rất may là tôi đã thành công. Sau khi xạ trị xong, tôi được theo dõi thường xuyên, nhưng nếu không thì cuộc sống đã trở lại bình thường.
“Nhưng sau đó, tại một cuộc kiểm tra định kỳ vào năm 2019, họ phát hiện ra bệnh ung thư đã tái phát. Đó là một cú sốc hoàn toàn. Đây là sáu năm sau khi quá trình xạ trị của tôi kết thúc và vì vậy tôi nghĩ mình đã an toàn. Tôi đã phẫu thuật năm ngoái ở đâu họ đã loại bỏ càng nhiều khối u càng tốt và tôi hiện thường xuyên chụp cắt lớp để theo dõi nó. Tôi nghĩ những phát hiện về những lần quét này thật tuyệt vời. Bất kỳ công nghệ mới nào có thể giúp các bác sĩ phẫu thuật thực hiện công việc của họ chỉ có thể là một điều tốt – và như một bệnh nhân thực sự khuyến khích khi biết rằng bạn sẽ được an toàn nhất có thể. ”
(Nguồn Medicalxpress.com)